Chưa xác định dữ liệu

Chuyển dịch năng lượng tại Châu Á Thái Bình Dương - liệu phát thải ròng có thể bằng không?

26/10/2022 14:10 Số lượt xem: 125

Quá trình chuyển dịch hướng tới phát thải ròng bằng không của Châu Á Thái Bình Dương liệu có khả thi? (Ảnh st)

Năm 2020 sẽ được ghi nhớ là năm của đại dịch Covid-19. Cuộc khủng hoảng toàn cầu xé toạc cấu trúc kinh tế xã hội gây ra những đau khổ và biến động không kể xiết. Tuy nhiên, bất chấp những thách thức này, các chính phủ đã tăng cường tham vọng về khí hậu với những lời hứa về hành động quốc gia đang diễn ra dày đặc và nhanh chóng trên toàn thế giới. Khi các cuộc thảo luận về lộ trình tiến tới phát thải ròng bằng không của châu Âu (EU) đang diễn ra, tháng 9/2020, Trung Quốc đã công bố cam kết trung hòa về cacbon và ngay sau đó là Nhật Bản và Hàn Quốc, bằng cách đó thu hút sự chú ý về phát thải ròng bằng không vào Châu Á Thái Bình Dương.

Giống như Covid-19, các vấn đề toàn cầu lớn như giảm phát thải không thể được giải quyết riêng lẻ, và năng lực mạnh mẽ của một quốc gia hoặc khu vực là chưa đủ. Nhưng các mục tiêu phát thải ròng bằng không mang những ý nghĩa và hàm ý khác nhau trên khắp thế giới. Ở Châu Á Thái Bình Dương, mức phát thải cacbon tuyệt đối hiện cao hơn khoảng 6 lần so với EU và Vương quốc Anh, và cao hơn 4 lần so với Mỹ. Quy mô của thách thức này rõ ràng là rất lớn ở Châu Á Thái Bình Dương, vượt xa các khu vực khác.

Mối quan tâm chính đối với các quốc gia đã cam kết phát thải ròng bằng không là liệu họ có đủ khả năng loại bỏ dần các nhà máy điện than hiện có mà không gặp rủi ro về an ninh năng lượng, độ ổn định lưới điện và tăng biểu giá điện bán lẻ hay không (Ảnh st)

Hồ sơ năng lực quốc gia đa dạng ở Châu Á Thái Bình Dương cho thấy một loạt tình huống choáng váng nan giải

Châu Á Thái Bình Dương đã chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc trong hai thập kỷ qua và nhiều thị trường sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng trong nhiều thập kỷ tới. Nhưng sự tăng trưởng này chủ yếu dựa vào việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than đá. 52% nhu cầu năng lượng năm 2020 của khu vực và hơn 70% phát thải của khu vực này là từ than đá, trong khi châu Âu và Mỹ phụ thuộc nhiều hơn vào dầu và khí đốt.

Điện khí hóa sẽ là chìa khóa để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, nhưng nhu cầu điện tăng cao sẽ kéo dài sự phụ thuộc của Châu Á Thái Bình Dương vào nhiên liệu hóa thạch ít nhất là trong thập kỷ tới.

Chi phí của năng lượng tái tạo giảm nhanh tiếp tục dẫn đến sự cạnh tranh giữa năng lượng tái tạo và nhiên liệu hóa thạch, nhưng các vấn đề về tính gián đoạn vẫn còn đó.

Trước khi kết thúc thập kỷ này, các nhà lãnh đạo Châu Á Thái Bình Dương phải giải quyết một số quyết định khó khăn và cân bằng giữa kinh tế, an ninh năng lượng và các mục tiêu chính sách khi xác định đường lối của từng quốc gia.

Các ưu tiên sẽ khác nhau tùy thuộc vào loại hình chính phủ, hệ thống kinh tế, địa lý và mức độ tự cung tự cấp về nguồn lực và vốn. Đối với các nền kinh tế mới nổi ở Nam Á và Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, nhiên liệu giá rẻ đáng tin cậy là điều kiện tiên quyết. Chi phí nhiên liệu tái tạo giảm nhanh tiếp tục dẫn đến sự cạnh tranh giữa năng lượng tái tạo và nhiên liệu hóa thạch, nhưng các vấn đề về tính gián đoạn vẫn còn đó. Do đó, nhiên liệu hóa thạch sẽ vẫn chiếm ưu thế và phát thải sẽ tiếp tục tăng ở các nước đang phát triển, ít có khả năng đạt đỉnh cho đến cuối những năm 2040. Tuy nhiên, mức phát thải bình quân đầu người của họ nhìn chung sẽ vẫn thấp hơn các nền kinh tế phát triển.

Đồng thời, nguồn cấp vốn mới cho than ngày càng khan hiếm. Mối quan tâm chính đối với các quốc gia đã cam kết phát thải ròng bằng không là liệu họ có khả năng và khi nào họ có khả năng loại bỏ dần đội ngũ các nhà máy nhiệt điện than hiện có mà không gặp rủi ro về an ninh năng lượng, độ ổn định lưới điện và không tăng biểu giá điện bán lẻ. Mọi con mắt đang đổ dồn vào Nhật Bản, quốc gia gần đây đã khiến thị trường ngạc nhiên với mục tiêu giảm phát thải tham vọng hơn - cắt giảm 46% vào năm 2030 so với mức của năm 2013. Nhật Bản đã chịu chi phí năng lượng cao nhất trong vùng với biểu giá người dùng cuối cao gấp đôi so với Trung Quốc và Hàn Quốc. Kế hoạch kiên quyết của Nhật Bản nhằm giảm cả than và khí hóa lỏng (LNG) trong cân bằng phát điện đòi hỏi phải có hành động ngay lập tức để tăng năng lượng hạt nhân gây tranh cãi từ 6% hiện nay lên 20-22% vào năm 2030. Trong khi đó, tăng cường năng lượng tái tạo có thể là một giải pháp thay thế dễ thực hiện hơn, nhưng tích trữ điện trong khoảng thời gian dài có thể mở rộng phải đóng vai trò tích cực để cho phép tỷ lệ thâm nhập cao hơn và đảm bảo nguồn cung ổn định. Năm 2030 là một khung thời gian cực kỳ khó khăn để giải quyết những vấn đề lớn chưa được bàn đến này.

Những mục tiêu phát thải ròng bằng không mang những ý nghĩa và hàm ý khác nhau trên khắp thế giới (Ảnh st)

Hành động vì khí hậu đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng và kịp thời các mệnh lệnh về chính sách và vốn. Về vấn đề này, phương pháp ra lệnh và kiểm soát của Trung Quốc trong việc chống lại đại dịch mang lại cho thế giới niềm hy vọng rằng cam kết phát thải ròng bằng không của quốc gia này, nếu được tuân thủ với hiệu quả tương tự, có thể mang tính chuyển đổi trong việc định hình lại quốc gia phát thải cacbon lớn nhất thế giới này. So với các nước khác trong khu vực, Trung Quốc có thể có cơ hội tốt hơn để đạt được các mục tiêu phát thải ròng bằng không nếu sự quyết tâm mạnh mẽ kết hợp với sự điều phối của chính quyền trung ương dẫn đến thay đổi toàn bộ ở tất cả các cấp độ kinh doanh và xã hội.

Khử cacbon sâu là một cuộc đua đường dài, không phải chạy nước rút

Ý chí chính trị để hành động cuối cùng phải phù hợp với sự sẵn có và khả năng chi trả với giá hợp lý của các giải pháp thay thế công nghệ trong chặng đường dài hướng tới khử cacbon. Về lâu dài hơn, quá trình khử cacbon sẽ ít bị hạn chế bởi chi phí hoặc tính khả thi của công nghệ, mà quan tâm hơn đến việc công nghệ có thể mở rộng quy mô nhanh chóng và đáng tin cậy như thế nào.

Chấp nhận hydro xanh có thể là một yếu tố thay đổi cuộc chơi đối với các lĩnh vực khó khử cacbon như công nghiệp nặng và vận tải thương mại (Ảnh st)

Tại Châu Á Thái Bình Dương, chúng ta kỳ vọng thời lượng tích trữ bằng acquy trung bình sẽ tăng từ 2 giờ hiện nay lên 7-8 giờ vào năm 2050, qua đó cải thiện tính linh hoạt của lưới điện. Chấp nhận hydro xanh cũng có thể là một yếu tố thay đổi cuộc chơi đối với các lĩnh vực khó khử cacbon như công nghiệp nặng và vận tải thương mại.

Nhưng thách thức vẫn còn. Thời lượng acquy 7-8 giờ có đủ dự phòng cho việc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch quy mô lớn không? Liệu việc chấp thuận hydro có thể khắc phục sự không chắc chắn về nhu cầu của người dùng cuối và có thể phát triển các chuỗi cung ứng mạnh để có tác động đáng kể hay không? Thu giữ và tích trữ cacbon (CCS) và thu giữ, sử dụng và tích trữ cacbon (CCUS) cũng phải đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải. Chúng ta kỳ vọng các ứng dụng loại bỏ cacbon sẽ loại bỏ gần 500 triệu tấn CO2 phát thải từ việc sản xuất điện bằng than và khí vào năm 2050. Tuy nhiên, mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050 (hoặc 2060) xem ra vẫn còn là một quãng đường quá dài.

Châu Á Thái Bình Dương phải nỗ lực hơn nữa trong cuộc đua chống biến đổi khí hậu (Ảnh st)

Theo phân tích mới nhất của Công ty Wood Mackenzie (Vương quốc Anh) về năng lượng và phát thải Châu Á Thái Bình Dương cho thấy, các quốc gia trong khu vực này sẽ đạt được tiến bộ quan trọng hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng không, nhưng thậm chí cả các mục tiêu của Thỏa thuận Paris nhằm hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu trung bình xuống 2⁰C so với mức tiền công nghiệp vẫn rất mơ hồ trong khoảng thời gian đã cho và các rào cản phía trước. Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều thị trường trưởng thành hơn sẽ mở đường tới phát thải ròng bằng không, nhưng đối với các nền kinh tế mới nổi, mức phát thải đỉnh điểm sẽ còn xa vời hơn nữa khi các nhà lãnh đạo tìm cách duy trì tăng trưởng và phát triển theo cách sạch hơn, bền vững hơn.

Thúc đẩy quá trình chuyển dịch ở Châu Á Thái Bình Dương là một thách thức có một không hai. Khu vực này đã chứng kiến ​​một số thành công ban đầu, nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa. Với nhiều quốc gia như vậy, các nỗ lực về khí hậu phải đồng thời khử cacbon và cung cấp năng lượng cho các nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất thế giới. Sẽ cần đến sự hỗ trợ đáng kể về chính sách và vốn để xây dựng các chuỗi cung ứng cần thiết, tạo ra các kỹ năng trong tương lai và giảm thiểu rủi ro xã hội trong suốt hành trình này. Và điều này sẽ đòi hỏi các bên liên quan từ các khu vực công và tư, tất cả các quốc gia và mọi tầng lớp trong xã hội phải cộng tác, thích ứng và hình dung lại các hệ thống năng lượng hiện có.

Cuộc đua tới phát thải ròng bằng không đã bắt đầu và Châu Á Thái Bình Dương hiện đã tham gia cuộc đua này. Nhưng các công ty điện lực hãy chuẩn bị cho một cuộc đua đường dài.

Biên dịch: Phạm Gia Đại

Theo “forbes’’