Các vùng ngoại ô và nông thôn sẽ chứng kiến hầu hết các chuyển đổi về ngầm hóa lưới điện (Ảnh st)
Việc cấp điện phải đối mặt với gánh nặng của thời tiết khắc nghiệt (lũ quét, bão băng/bão tuyết, bão, cháy rừng, nắng nóng cực đoan). Các kỷ lục tồn tại hàng trăm năm đang bị phá vỡ, dẫn đến thiệt hại kinh tế (Bắc Mỹ, các đảo Caribe, Nam Á/Đông Nam Á, Liên minh Châu Âu (EU) và các quốc gia khác). Mỗi sự kiện tốn hàng trăm triệu USD để phục hồi, kéo dài nhiều tháng. Sự chú ý đang chuyển sang phân phối điện ngầm (và thậm chí cả các hệ thống phân phối trên mặt đất (GLDS)). Các vùng ngoại ô và vùng nông thôn sẽ chứng kiến hầu hết các chuyển đổi như vậy.
Cáp ngầm có đặc điểm riêng so với các đường dây trên không, (a) không bị sét đánh/cây cối/động vật tiếp xúc; (b) an toàn công cộng tốt hơn do không còn rủi ro dây dẫn bị rơi (mặc dù có nguy cơ từ việc đào đất); (c) không cần quản lý thảm thực vật liên tục; và (d) không gây nhiễu thị giác. Nhược điểm là (a) năng lực quá tải kém hơn; (b) thời gian định vị/phục hồi chạm chập dài hơn; và (c) chi phí vốn cao (gấp 4 đến 7 lần so với đường dây trên không).
Hầu hết các phương pháp đi cáp ngày nay đều theo các tiêu chuẩn 70 năm tuổi và chi phí xây dựng của chúng (máy móc, nhiên liệu, vật liệu lấp và nhân công) đã tăng đáng kể theo năm tháng. Ngày nay, riêng chi phí xây dựng chiếm tới 70% của một dự án cáp ngầm.
Sau đây là các phương pháp đi cáp được áp dụng nhiều nhất cho cáp HV (cao áp), MV (trung áp) và LV (hạ áp):
Để giảm chi phí xây dựng), chúng ta cần (a) bảo vệ cáp tốt hơn; (b) cho phép đi cáp ở độ sâu nông hoặc thậm chí là đi cáp ở trên mặt đất; (c) có quy trình đơn giản, ít kỹ thuật hơn trên mọi địa hình; và (d) loại bỏ việc đào và lấp đất tốn kém và mất thời gian.
Việc đi cáp có bốn thành phần chi phí chính, (a) bản thân cáp; (b) quy trình lắp đặt/xây dựng cáp; (c) tốc độ thực hiện; và (d) sự chậm trễ của dự án. Chi phí điển hình của Bắc Mỹ nêu bật thách thức này (lưu ý: chênh lệch chi phí lớn):
Trước làn sóng chuyển đổi lưới điện trên cao quy mô lớn dự kiến triển khai tại Bắc Mỹ, các công ty điện lực cần đánh giá lại giải pháp hệ thống cáp hiện có (Ảnh st)
Một giải pháp cải tiến thay thế là sử dụng các đoạn ống cao su tổng hợp EPDM chống va đập, có độ dày ít hơn 0,9m, kết nối với nhau, "ống chia đôi" quấn cáp (giống như ống dẫn) và có thể đi theo địa hình cáp theo độ linh hoạt của nó. Các ống trọng lượng nhẹ, liên kết với nhau này cho phép tạo ra hệ thống bảo vệ đường ống liên tục, có thể thích ứng với các đoạn cáp uốn cong và địa hình. Điều này loại bỏ nhu cầu san lấp đáy rãnh bắt buộc với các đoạn ống dẫn dài 3-6m hoặc lớp lót cát/đá bảo vệ cáp liên quan đến cáp chôn trực tiếp. Các ống chia đôi này có thể lắp đặt theo hai cách: “quấn rồi đặt” (kéo từ đầu cuộn cùng với cáp) hoặc “đặt rồi quấn” (sau khi cáp đã đặt xuống rãnh). Các đoạn ngắn có thể mở và liên kết với nhau giúp việc sửa chữa cáp trở nên dễ dàng hơn nhiều. Công nghệ này hiện đã được triển khai trong vài năm qua tại Liên minh châu Âu (EU) cho nhiều công ty ngành dọc (các công ty điện lực, trang trại năng lượng mặt trời/gió) cho cả cáp MV, LV và cáp truyền thông. Trước làn sóng chuyển đổi lưới điện trên cao quy mô lớn dự kiến triển khai tại Bắc Mỹ, các công ty điện lực cần đánh giá lại giải pháp hệ thống đi cáp hiện có.
Biên dịch: Chu Hải Yến
Theo “Energycentral”, số tháng 3/2025