Bài viết này mô tả ba loại tuabin thủy lực, các ứng dụng và các thành phần của chúng.
Các nhà máy thủy điện là một trong những nguồn năng lượng tái tạo chính. Chúng hoạt động bằng cách sử dụng nước tích trữ trong các đập hoặc dưới dạng nước chảy tràn để sản xuất điện sạch, chi phí thấp thông qua việc quay các tuabin thủy lực bằng năng lượng của dòng nước chảy hoặc rơi từ trên cao.
Trong thực tế, điện năng được sản xuất ra bởi các máy phát điện đồng bộ hoặc máy phát điện xoay chiều đồng bộ, dẫn động thông qua các tuabin.
Thiết bị bơm thủy lực (Ảnh st)
Tuabin này chuyển đổi động năng hoặc thế năng của nước (tức là đập chứa nước) thành cơ năng. Các máy phát điện, ghép nối với bánh xe công tác thông qua trục, chuyển đổi cơ năng thành điện năng. Các đập là các hồ chứa nước, cung cấp thế năng cho cột nước. Cột nước là chênh lệch giữa mực nước tích trữ trong hồ chứa và mực nước ở đường ống xả.
Hình 1. Mô hình phát điện thủy điện (Ảnh st)
Việc thiết kế và lựa chọn tuabin phụ thuộc vào lưu lượng nước và cột nước tại hiện trường, từ cột nước thấp đến cột nước cao. Hiểu biết về các loại tuabin, cùng với các ứng dụng và cách sử dụng chúng, là rất quan trọng để tối đa hóa tính năng và hiệu quả của các cơ sở thủy điện.
Các loại tuabin
Tuabin được ghép trực tiếp với máy phát điện, tạo thành một tổ máy phát điện. Có ba loại tuabin thủy lực chính: Tuabin xung lực, tuabin phản lực và tuabin cánh quạt
Việc lựa chọn tuabin cho một ứng dụng cụ thể phụ thuộc vào công suất đầu ra và chiều cao cột nước mà tuabin sẽ hoạt động. Bánh xe Pelton thường phù hợp với chiều cao cột nước lớn nhất, tuabin Francis phù hợp với chiều cao cột nước trung bình, và loại tuabin cánh quạt phù hợp với độ cao cột nước thấp.
Hình 2. Thông số trên nhãn máy của Tuabin thủy lực Francis, Loại: Thẳng đứng với một bánh xe công tác kết hợp với Máy phát điện xoay chiều có tốc độ danh định 136,4 vòng/phút (Ảnh st)
Tuabin phản lực
Francis là một loại tuabin phản lực trong đó bánh xe công tác và ống hút chứa đầy nước. Có thể chế tạo Tuabin Francis với trục ngang hoặc trục đứng. Các tuabin lớn hơn thường có trục đứng. Vỏ ốc xoắn tạo thành một đường dẫn nước khép kín xung quanh tuabin và cho phép nước đi vào bánh xe công tác từ mọi phía. Ống hút dẫn nước thoát ra từ bánh xe công tác xuống kênh xả.
Có nhiều loại ống hút được sử dụng: ống thẳng đứng, ống loe dạng moody và ống gập khuỷu. Thiết kế của ống gập khuỷu dễ thi công khiến hiệu suất của nó tăng lên so với các loại khác. Ống hút gập khuỷu, đúng như tên gọi của nó, hướng dòng nước theo một góc vuông và tạo ra một đường dẫn mở rộng liên tục cho dòng nước xả. Cấu trúc này yêu cầu độ sâu đào móng ít hơn so với một số loại ống hút khác, do đó giảm chi phí xây dựng.
Với các tuabin lớn, người ta thường chia đầu xả theo chiều ngang của ống hút thành hai hoặc nhiều đường dẫn nước nữa bằng các tấm phân dòng theo phương thẳng đứng hoặc nằm ngang, giúp uốn thẳng dòng chảy trước khi xả nước ra lần cuối.
Tuabin xung lực
Hình 3 minh họa nguyên lý của bánh xe Pelton. Tuabin này thường có trục nằm ngang. Một đường ống áp lực bằng thép dẫn nước đến tuabin vào một vòi phun, cho phép phóng nước ra dưới dạng tia phun tốc độ cao. Tia nước này phun vào vỏ bánh xe, nơi có áp suất gần bằng áp suất khí quyển thực tế, và hướng vào các gáo lắp xung quanh vành đĩa bánh xe. Nước chảy xung quanh các gáo. Tia nước được chia thành hai phần bằng nhau bởi bộ phận trung tâm hoặc vách ngăn và di chuyển quanh bề mặt cong của gáo mà không làm đầy gáo. Khi bánh xe quay, các gáo sẽ di chuyển ra xa khỏi tia nước với vận tốc xấp xỉ bằng một nửa vận tốc của tia nước. Mặc dù nước rời gáo vẫn mang một phần năng lượng (dư), song phần lớn năng lượng ban đầu đã được khai thác hiệu quả để tạo công suất cơ học quay bánh xe (Trong thiết kế tối ưu, tia nước rời gáo với vận tốc thấp nhất có thể để đảm bảo hầu hết năng lượng đã được truyền cho bánh xe)
Hình 3. Tuabin Pelton, vòi phun và các gáo (Ảnh st)
Đôi khi, người ta sử dụng tấm chắn nước để chuyển hướng tia nước ra khỏi bánh xe trong trường hợp sa thải phụ tải, qua đó thực hiện chức năng như van xả áp, giúp ngăn chặn sự gia tăng áp suất nguy hiểm trong đường ống áp lực. Tuy nhiên, người ta cũng sử dụng song song các van xả áp.
Các gáo thường có thể được thay thế và lắp vào bánh xe bằng các bu lông chắc chắn. Các gáo lớn thường sử dụng thép đúc, trong khi các gáo nhỏ hơn thường làm bằng đồng thanh hoặc thép không gỉ. Người ta cũng làm nhẵn hoặc đánh bóng các bề mặt bên trong của gáo nhằm giảm thiểu tổn thất do ma sát của nước khi chảy qua gáo.
Tuabin cánh quạt
Giáo sư người Áo Viktor Kaplan đã phát triển tuabin cánh quạt vào năm 1913 nhằm đáp ứng nhu cầu về tuabin có tốc độ cao hơn và công suất lớn hơn, dùng trong các khu vực có cột nước thấp. Ông đặt tên tuabin cánh quạt theo hình dạng bánh công tác giống cánh quạt tàu thủy.
Trong cấu hình tuabin này, bánh xe công tác đặt tại họng của ống hút. Bánh xe công tác này còn gọi là buồng xoáy. Nước đi vào khu vực này từ vỏ ốc xoắn thông qua các cánh hướng dòng và hướng xuống phía dưới về phía bánh xe công tác. Các cánh riêng lẻ của bánh xe công tác xoay về phía ổ trục của bánh xe và chuyển động cùng với nhau, góc nghiêng của cánh có thể tự điều chỉnh theo sự thay đổi tải. Việc sử dụng góc cánh đúng cho từng mức tải giúp duy trì hiệu suất cao của tuabin trên hầu hết dải công suất hoạt động. Do đó, nhờ khả năng tự động điều chỉnh góc cánh, loại tuabin này rất phù hợp để vận hành trên một dải rộng mức tải.
Van xả áp và bể điều áp đảm bảo an toàn cho tuabin
Khi các tuabin kết nối với các đường ống áp lực dài, việc bố trí một số phương tiện chống tăng áp suất đột ngột là hết sức cần thiết, đặc biệt là trong trường hợp sa thải phụ tải đột ngột. Sau đây là một số ứng dụng chính khi máy đột nhiên sa thải phụ tải.
1. Khi một khu vực lớn như một đường dây 550kV bị sự cố hoặc một thiết bị điện công suất lớn bị hỏng, một lượng tải lớn sẽ bị ngắt ra khỏi hệ thống, điều này dẫn đến sụt áp nghiêm trọng trong hệ thống, thường gây ra hiện tượng các nhà máy điện tự động ngắt (sa thải phụ tải). Khi đó, tốc độ quay của máy phát điện sẽ tăng vọt lên mức nguy hiểm.
2. Nhiễu loạn ở cấp độ lưới điện, chẳng hạn như thăng giáng điện áp và tần số, dẫn đến sa thải phụ tải.
3. Sự cố trong các hệ thống điều khiển, chẳng hạn như bộ điều tốc hoặc hệ thống kích từ kích hoạt quá trình sa thải phụ tải của máy phát.
Đặc biệt đối với tuabin thủy lực, khi xảy ra thay đổi tải đột ngột, chuyển động của các cửa dẫn nước hoặc cửa tuabin phải diễn ra đủ nhanh để ngăn chặn hiện tượng tăng tốc tuabin quá mức và dao động điện áp. Nếu đóng cửa dẫn nước quá nhanh mà không có thiết bị giảm áp, áp suất nước tăng đột ngột trong đường ống dẫn áp lực có thể phá hủy hệ thống. Để giảm áp suất dư, có thể sử dụng bể điều áp hoặc van xả áp. Để hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn dao động áp suất, bể điều áp nên đặt gần tuabin. Trong một số trường hợp, bộ điều áp hoặc van xả áp cũng có thể dùng thay thế cho bể điều áp.
Tính năng của tuabin và hiệu suất của nhà máy
Thử nghiệm nghiệm thu là các thử nghiệm dùng để xác định sản lượng và hiệu suất của một tuabin mới và các thử nghiệm này thường yêu cầu đo chính xác lượng nước mà tuabin sử dụng. Chúng cũng dùng để đo tính năng của tuabin dưới các cột nước khác nhau và để xác định tình trạng của thiết bị sau khi hoạt động một thời gian dài.
Thật tiện lợi khi xác định tính năng tổng thể của thiết bị, bao gồm đường ống áp lực, tuabin và máy phát điện. Sản lượng của tổ máy có thể đo bằng công tơ của máy phát điện. Nếu xác định chính xác lưu lượng xả của tuabin thì có thể xác định dễ dàng hiệu suất tổng thể của tổ máy đối với một cột nước cụ thể tại thời điểm thử nghiệm. Như chúng ta đã biết, hiệu suất là tỷ số giữa sản lượng và đầu vào. Sản lượng là đầu ra đo được của máy phát điện tính bằng kilowatt, trong khi đầu vào tỷ lệ thuận với tích của lượng nước sử dụng và cột nước tổng. Đầu vào biểu thị bằng kilowatt theo đó:
Đầu vào tính bằng kW = 0,0845 QH
Trong đó
Q = lượng xả của tuabin tính bằng feet khối mỗi giây (cfs)
H = cột nước thô tính bằng feet (chênh lệch giữa độ cao của đập trước và kênh xả)
Vì thế,
e = Đầu ra/đầu vào = Máy phát điện kW/0,0845 QH
Công suất đầu ra của máy phát điện phụ thuộc vào lượng nước mà tuabin chuyển đổi thành điện, cột nước khả dụng và hiệu suất của tổ máy. Việc sử dụng nước hiệu quả vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu tại tất cả các nhà máy không thường xuyên hoạt động với lượng nước dồi dào và phải cân nhắc thêm các vấn đề như quản lý tích trữ và lắng đọng hồ chứa, tổn thất áp suất và lịch bảo trì để ngăn ngừa hiện tượng xâm thực, v.v., vì đây không phải là lượng có thể chỉ ra trực tiếp bằng công tơ của nhà máy.
Biên dịch: Phạm Gia Đại
Theo “eepower”, tháng 4/2025